Giỏ hàng

ANOLYTE LÀ GÌ? LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỦA ANOLYTE?

Năm 2019, Tiến sĩ Trịnh Xuân Đức cùng cộng sự đã nghiên cứu và điều chỉnh thành công Anolyte trung tính A7 tại Viện SIIEE.

Anolyte là gì?

Anolit (Anolyte), thuật ngữ tiếng Anh là Electro-Chemical Activation (ECA)  là dung dịch hoạt hóa điện hóa, không màu, có mùi clo nhẹ, điều chế bằng cách điện phân dung dịch NaCl, dùng để diệt (sát) khuẩn; dung dịch này được các nhà khoa học Nga gọi là "nước chết". Sản xuất anolit bằng các máy điện phân dung dịch nước muối loãng (NaCl nồng độ khoảng 5%). Cho dòng điện một chiều chạy qua dung dịch nước muối đặt trong buồng có màng ngăn không hoàn toàn, một chuỗi phản ứng điện-hóa xảy ra trên bề mặt điện cực âm (cathode) và điện cực dương (anode). Khi đó, dung dịch NaCl phân thành: dung dịch kiềm tập trung ở cực âm (dung dịch Catolit) và dung dịch axit tập trung ở cực dương (dung dịch Anolit).

Lịch sử hình thành Anolyte

Vào những năm 1836, nhà khoa học Michael Faraday đã tìm ra được công nghệ điện phân nước và đưa ra định luật Faraday.

Nước Anolyte được sản xuất dựa trên hiện tượng hoạt hóa điện hóa (Electrochemical Activation - viết tắt là ECA), được phát hiện năm 1974 bởi kỹ sư người Nga Bakhir.V.M. Dung dịch muối đơn giản được sử dụng trong quá trình điện phân chuyên biệt cao có màng ngăn, ngăn cản sự phản ứng lại của hai điện cực để tạo ra dung dịch oxy hóa có tính acid với tính khử trùng đặc biệt cũng như dung dịch kiềm, và tồn tại ở trạng thái siêu bền. Hiệu quả của nước Anolyte được dựa trên các thông số của ion oxy hóa, chỉ số ORP cao và pH thấp, do đó chúng vượt trội hơn tất cả các chất khử trùng hóa học. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, anolyte có khả năng kháng khuẩn lên tới 99% tất cả các loại vi khuẩn và hiệu quả hơn 120 lần so với dung dịch tẩy clo thông thường.

Năm 2015, tiến sĩ Nguyễn Hoài Châu đã nghiên cứu và tạo ra máy anolyte đầu tiên tại Viện Hàn Lâm khoa học và công nghệ Việt Nam.

Năm 2019, Tiến sĩ Trịnh Xuân Đức cùng cộng sự đã nghiên cứu và điều chỉnh thành công Anolyte trung tính A7 tại Viện SIIEE.

Các loại anolyte và cơ chế hoạt động

Vì được tạo ra bởi công nghệ điện phân, cho nên anolyte được chia làm 3 loại. Acid anolyte, Anolyte trung tính và Anolyte kiềm.

Acid anolyte có độ pH từ 2.0-3.5; ORP ở khoảng 1000-1200mV, là một chất lỏng sinh học trong suốt không màu, có mùi clo nồng. Nó chủ yếu bao gồm clo (Cl2) hoạt tính có nồng độ khoảng 500-700 mg/L với độ pH thấp và ORP cao, tất cả đều mang lại cho nó hoạt tính diệt khuẩn và diệt khuẩn sinh học vượt trội. Các chất hoạt động phù hợp với EC 98/8 và 03/2032 liên quan đến việc đưa chất lỏng diệt khuẩn trên thị trường.có thể được sử dụng ở bất cứ nơi nào cần khử trùng hoặc khử trùng, trong các ứng dụng mà độ pH không quan trọng và nơi không có nguy cơ ăn mòn. Anolyte là một chất khử trùng rất mạnh chống lại tất cả vi khuẩn, vi rút và tảo ngay cả khi nó được pha loãng trong nước hoặc phun trong không khí.

Kiềm Catholyte có độ pH từ 11 đến 13, không có Cl hoạt tính và có thể được sử dụng để keo tụ (ví dụ: kim loại nặng), đông tụ, rửa, chiết. Hơn nữa, dung dịch này có thể được sử dụng để rửa vết thương (thay vì sử dụng iốt) và bất cứ nơi nào cần tăng độ pH của nước cần xử lý.

Anolyte trung tính A7 có pH từ 7.3 đến 7.8, ORP từ 700 đến 900 mV; là một chất lỏng lưỡng tính trong suốt không màu, có mùi clo nhẹ. Nó bao gồm chủ yếu là axit Hypochlorous (HClO) và ion Hypochlorite (OCl-) mang lại cho nó hoạt tính diệt khuẩn và diệt khuẩn vượt trội. Hàm lượng Cl hoạt tính có trong anolyte trung tính khoảng 500 đến 700 mg/L.

Các chất hoạt động phù hợp với EC 98/8 và 03/2032 liên quan đến việc đưa chất lỏng diệt khuẩn trên thị trường.được sử dụng ở những nơi pH quan trọng (ăn mòn) và nơi không thể tránh được sự bay hơi của clo hoạt tính. Anolyte trung tính rất hiệu quả chống lại vi khuẩn và vi rút và hầu hết được sử dụng để khử trùng bể bơi, nước uống hoặc các nguồn nước khác. Bên cạnh đó Anolyte trung tính được sử dụng rộng rãi để khử trùng / khử trùng các đồ vật (sàn nhà, tường, dụng cụ, thực phẩm, v.v.).

 

Facebook Instagram Youtube Google+ Top